Xuất xứ
Cá
chép bắt nguồn từ Trung Quốc. Theo các nhà khảo cổ học, phân tích từ
hóa thạch tìm được ở miền Nam Trung Quốc, thì cá chép đã có từ hơn 2
triệu năm. Vào thế kỷ 4, người TQ đã biết lai tạo giống cá chép, để giờ
đây giống cá 3 đuôi hoặc cá Tàu đã nổi tiếng trên thế giới. Cá chép được
lai tạo để trở thành giống cá đẹp, trưng bày làm cảnh (kiểng) đã phát
tán rộng rãi và người Nhật Bản cũng đã nghiên cứu để nhân giống loài cá
này đầu tiên tại đảo Niigata. Đầu thế kỷ 20, năm 1914, để tôn vinh hoàng
tử Hirohito, Nhật Bản đã cho triển lãm giống cá chép Koi đầu tiên tại
Tokyo và đảo Niigata chính thức được mang tên Niigata Koi. Từ đây, cá
chép Nhật vói 2 màu chủ đạo "đỏ và trắng" được tôn vinh và mua bán rộng
rãi.
Để
nghiên cứu thêm về cách lai tạo màu, sinh sản, nhân giống và nuôi dưỡng
v.v. từ năm 1950, Nhật Bản đã cử các chuyên gia đến học hỏi tại Trung
tâm Khoa học Kỹ thuật thuộc khoa Sinh vật trường Đại học Chicago và khoa
Hóa lý thuộc Viện nghiên cứu Illinois, Hoa Kỳ.
Cá
chép do người Nhật lai tạo đẹp về màu sắc và đắt giá. Do vậy, mỗi khi
nhắc đến loài cá chép được lai tạo có nhiều màu sắc đẹp, người ta liên
tưởng ngay đến người Nhật và thường được dùng chung một tên gọi là "cá
chép Nhật". Thực ra, cá chép do Nhật Bản lai tạo có tên gọi là
Nishikigoi, dịch ra tiếng Việt là cá chép nhiều màu sắc, đến thế kỷ 19
thì có thêm tên gọi KOI.
Từ
Koi theo tiếng Nhật là cá chép, từ đồng âm khác nghĩa là tình yêu, yêu
mến. Như vậy, giống cá này được lai tạo bắt nguồn từ Trung Quốc, Koi là
tên do người Nhật đặt và được gọi chung cho tất cả các loại cá chép lai
tạo. Hiện nay, trên eBay đang bán một loại cá chép Koi màu trắng sữa
đuôi dài, được ghi rõ xuất xứ Việt Nam.
Do
cá Koi của Nhật thuộc loại xuất sắc, đắt giá và nổi tiếng, nên người
Nhật đã tự đặt ra những quy cách về gam màu, tên gọi để phân biệt từng
chủng loại.
Chủng loại
Cá Koi được chia ra làm 2 loại: Koi chuẩn và Koi bướm.
Koi
chuẩn: Hình dáng giống như cá nguyên thủy, nhưng được pha trộn nhiều
màu sắc rất đẹp (khi được nhìn từ trên xuống, dọc theo sống lưng), do đó
cá Koi chỉ thật sự đẹp khi được nuôi ở ao.
Koi
bướm: Khác với cá nguyên thủy là vi, vây và đuôi dài, khi bơi nhìn uyển
chuyển rất đẹp, nên có thể nuôi được ở cả ao và hồ kiếng. Koi bướm còn
có những tên gọi khác như “cá chép vây dài” hoặc “cá chép Rồng”. Từ năm
1980 Nhật Bản mới bất đầu nhân giống loại Koi bướm.
Màu sắc
Người
Nhật tin rằng những mảng màu trên mình cá chép Koi là những hình xâm
luôn luôn mang lại sự may mắn. Tiêu chuẩn về màu được người Nhật đặt tên
như sau:
Trắng pha Đỏ = Kohaku.
Trắng pha Đỏ+Đen = Showa Sanke.
Trắng pha Đen = Utsurimono.
Đen pha Trắng = Shiro Bekko.
Vàng pha Đen = Ki Utsuri.
Bạch kim hoặc Vàng kim = Kinginrin.
Xám bạc = Asagi
Trắng, trên đỉnh đầu có một vòng tròn Đỏ = Tancho.
Và những giống khác như: Sanke, Ogon, Shusui, Matsuba, Chagoi, Soragoi, Karasu (crow), Taisho Sanke, Koromo, Kawarimono.
Hiện
nay, không riêng gì Nhật Bản mà các nước châu Âu, châu Á cũng biết cách
lai tạo giống Koi, nhưng các mảng màu và màu sắc thì khó sánh được với
Koi của Nhật.
Phân biệt
Phân biệt
Cá
chép Koi Trung Quốc và Việt Nam là giống với chép nguyên thủy và Koi
Nhật, Koi Pháp có hông ngắn (nhìn ngang) đầu hơi gù…và điều đặc biệt là
chỉ Koi Nhật là có màu đỏ chót như đỏ máu và đỏ ớt còn tất cả các loại
Koi khác chỉ có màu đỏ cam hay cam. Màu sắc của Koi Nhật rất rực rỡ và
có đường biên sắc nét, các mảng màu lớn và đều ở hai bên hông (khi nhìn
từ trên xuống, dọc theo sống lưng). Riêng loại Butterfly Koi của Nhật
thì vi, vây và đuôi rất dài (có khi bằng 2/3 thân) và màu thì phủ kín
đuôi… Việt Nam cũng có giống Butterfly Koi màu trăng sữa, đuôi dài vừa
phải, dọc trên sống lưng hàng vảy có pha chút màu đen. Khác với cá Nhật,
toàn thân trắng sữa, đuôi dài hơn và đặc biệt là có một hình tròn đỏ
chót ngay giữa đỉnh đầu, tượng trưng cho quốc kỳ của Nhật, giá cá này
rất cao; Thời gian gần đây xuất hiện giống Koi có màu óng ánh như kim
tuyến, nhưng chỉ có trên 2 màu là trắng và vàng mà người Nhật gọi là
Kinginrin.
Kích thước
Trước
đây, cá chép Koi được xác nhận là chiều dài có thể tới 2 m (6 ft) và
chúng có thể sống tới 230 năm, rồi suy giảm dần xuống theo các thế hệ.
Người ta cho rằng, phần lớn cá Koi hiện nay, có thể dài tới 1 m (3 ft)
và tuổi thọ từ 40 đến 60 năm tuổi. Nếu cá Koi được nuôi ở ao thì đến năm
thứ 8 có thể chiều dài tối đa của cá đạt đến 1 mét. Hình dưới đây là
kích thước tính bằng cm theo tháng tuổi của cá.
Cách chọn
Trước
hết, phải xác định là nuôi cá ở hồ kiếng hay hồ xi măng. Nếu là hồ
kiếng thì nên chọn giống cá Butterfly Koi (chép đuôi dài) vì chúng đẹp ở
dáng thướt tha. Chọn cá nhỏ hoặc lớn đều được, khoảng từ 5 cm đến 40 cm
tùy từng hồ, vì nuôi hồ kiếng cá bột lớn rất nhanh, nhưng khi phát
triển đến 20 cm thì khựng lại và chậm lớn… Nếu nuôi hồ xi măng (hồ ít
nhất là 6 m3) nên có hòn non bộ, một vài cây sen và súng vừa trang trí
cho đẹp vừa tạo bóng mát cho cá cũng nên có vòi phun hoặc thác nước cho
hòn non bộ, chủ yếu là để tạo ôxy cho cá. Để nuôi hồ xi măng nên chọn cá
đã phát triển từ 20 cm trở lên, vì hồ xi măng sẽ có rất nhiều vi sinh
vật vừa có lợi vừa có hại cho cá, cá nhỏ sẽ khó chống chọi lại được,
cũng như sự phát triển của cá ở hồ xi măng sẽ đạt tối đa. Theo kinh
nghiệm, cá bột tỉ lệ sống là 50 %, trong khi cá trên 20 cm tỉ lệ sống từ
90 đến 99 %. Vì cá nuôi trong hồ xi măng, cho nên cần chọn loại cá
Standard Koi (giống cá đuôi ngắn) vì sức khỏe và đề kháng gần gấp đôi
loại Butterfly. Do chỉ nhìn từ phía trên, nên màu cá là quan trọng nhất.
Nên chọn cá có những mảng màu lớn và cân đối đều 2 bên, luôn có màu chủ
đạo là trắng và đỏ. Một điểm đáng chú ý nữa và cũng rất quan trọng khi
chọn cá Koi là hình dáng của chúng. Nên xem xét kỹ, dáng bơi phải thẳng
và uyển chuyển, không có dị tật như: phần cuối thân bị cong lên, hở
mang, râu không đều (do bị cụt, mọc lại không được như cũ) và dị tật xấu
nhất của cá chép là "méo miệng". Tỷ lệ méo miệng khoảng 5 %.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét